Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2011

NỬA THẾ KỶ NGÀNH DẦU KHÍ THỰC HIỆN MONG ƯỚC CỦA BÁC HỒ

Kỷ niệm 50 năm ngày Truyền thống Ngành Dầu khí
Việt Nam (27/11/1961 – 27/11/2011)

NỬA THẾ KỶ NGÀNH DẦU KHÍ VN

THỰC HIỆN MONG ƯỚC CỦA BÁC HỒ

Phùng Đình Thực.
  Bí thư Đảng ủy,
                                                    Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí VN

Một thế kỷ trước, dầu mỏ ở Việt Nam là giấc mơ xa vời của người    Pháp. Ngay khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, dựa vào một số tài liệu ít ỏi (từ kho lưu trữ tài liệu cũ) của các nhà địa chất Pháp, bằng linh cảm tuyệt vời và tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chủ tịch đã hình dung và đặt mục tiêu phải xây dựng được ngành công nghiệp dầu khí mạnh để góp phần  phát triển một nước Việt Nam giàu mạnh.
Mong ước và mục tiêu của Người
Trong chuyến thăm Liên Xô ngày  23-7-1959, tại khu công nghiệp dầu khí Bacu (Azerbaizan), Người nói: “Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, Liên Xô nói chung, Azerbaizan nói riêng phải giúp Việt Nam khai thác và chế biến dầu khí, xây dựng được những khu công nghiệp dầu khí mạnh”.
Theo đề nghị của Việt Nam, từ năm 1959, Liên Xô đã cử các chuyên gia có kinh nghiệm sang nghiên cứu khảo sát, đánh giá triển vọng dầu khí; đào tạo cán bộ Việt Nam. Những đánh giá của các chuyên gia Liên Xô làm hiển hiện ngày một rõ hơn tiên đoán của Hồ Chủ tịch. Tầm nhìn và mong ước của Người đã trở thành mục tiêu hành động, là kim chỉ nam trong suốt quá trình xây dựng và phát triển của Ngành Dầu khí Việt Nam.
Những bước đường hiện thực hóa mong ước của Người
Ngày 27-11-1961, Đoàn Thăm dò dầu lửa 36 chính thức ra đời theo Quyết định số 271-ĐC của Tổng cục Địa chất Việt Nam (ngày này đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định là Ngày truyền thống của Ngành Dầu khí Việt Nam). Ngày 9-10-1969, Liên đoàn Địa chất 36 được thành lập theo Quyết định số 203/CP của Hội đồng Chính phủ – đánh dấu những chặng đường đầu tiên của Ngành Dầu khí Việt Nam.
Chỉ 3 tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về việc triển khai thăm dò dầu khí trên cả nước. Tiếp theo, ngày 03/9/1975 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam – tổ chức thống nhất về dầu khí cho cả nước – với mục tiêu: “Nhanh chóng tìm ra và khai thác nhiều dầu khí... nhanh chóng hình thành một nền công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, bao gồm thăm dò, khai thác, vận chuyển, lọc dầu, hóa dầu, cơ khi phục vụ Ngành Dầu khí...”.
Trong 15 năm (từ tháng 9-1975 đến 6-1990), Tổng cục Dầu khí đã  tiến hành thăm dò dầu khí trên đất liền và hợp tác với các công ty dầu khí phương Tây thăm dò một số lô ở thềm lục địa Nam Việt Nam. Ngày 19-4-1981, những mét khối khí đầu tiên từ mỏ khí Tiền Hải – C, tỉnh Thái Bình được khai thác dẫn đến trạm tua-bin khí phát điện. Ngày 26-6-1986, tấn dầu thô đầu tiên, do Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác từ mỏ Bạch Hổ tại thềm lục địa Việt Nam, ghi danh Việt Nam vào danh sách các nước sản xuất dầu khí thế giới. Dầu khí Việt Nam bắt đầu góp phần quan trọng vào khắc phục khủng hoảng kinh tế – xã hội trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây cấm vận. Nghị quyết 15-NQ/TW (7-7-1988) của Bộ Chính trị đã thổi “luồng gió mới” vào hoạt động khai thác dầu khí. Nhiều công ty dầu khí phương Tây đã bắt đầu trở lại Việt Nam. Đồng thời với hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, những cở sở dịch vụ dầu khí đầu tiên được xây dựng... Nền móng của Ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam được hình thành.
Ngày 6-7-1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định (số 250-HĐBT) thành lập Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam. Đây là sự kiện có tính bước ngoặt của Ngành Dầu khí Việt Nam – chuyển từ vai trò quản lý nhà nước và triển khai các công việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác, dịch vụ dầu khí, sang quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh trong khuôn của một tổ chức hạch toán kinh tế. Thời điểm này, cơ chế hoạt động của Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ, theo hướng mô hình doanh nghiệp Nhà nước, phi hành chính hóa theo xu thế chung của cả nước (sau khi đường lối đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI bắt đầu được triển khai).
Trong giai đoạn 1990-2006, Ngành Dầu khí Việt Nam có những bứt phá về mô hình tổ chức và hoạt động, trở thành một tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Trước yêu cầu phát triển mới, ngày 29-8-2006, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam ra đời. Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn đầu Tập đoàn triển khai thực hiện Chiến lược phát triển Ngành Dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến 2025, theo Kết luận số 41-KL/TW ngày 19-01-2006 của Bộ Chính trị và Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 09-3-2006 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong 50 năm qua, các thế hệ người làm công tác dầu khí Việt nam luôn ý thức được trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân, vượt mọi khó khăn, không ngừng lao động sáng tạo, từng bước xây dựng ngành Dầu khí trưởng thành và đã gặt hái được nhiều thành công. Hôm nay, chúng ta có thể tự hào thưa với Bác và  báo cáo với Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân cả nước: Niềm tin và ý chí của Bác Hồ về dầu khí đã trở thành hiện thực. Trong số nhiều thành công đã đạt được trong 50 năm qua có 7 thành tựu to lớn nhất, nổi bật nhất làm nên tên tuổi, thương hiệu Petrovietnam đó là:
Thứ nhất: Tập đoàn đã xây dựng được một hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ từ tìm kiếm thăm dò – khai thác dầu khí đến vận chuyển chế biến, lọc hóa dầu, góp phần xứng đáng thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh năng lượng đất nước.
Từ chỗ không có dầu khí, đến nay Tập đoàn đang khai thác 25 mỏ dầu khí (trong đó: ở trong nước 20 mỏ và ở nước ngoài 05 mỏ).
Tập đoàn đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại với nhiều hệ thống thăm dò khai thác dầu khí nổi trên biển; 03 hệ thống đường ống dẫn khí biển – bờ; 04 Nhà máy điện khí đã đưa vào vận hành đóng góp 15% năng lượng điện quốc gia; Nhà máy Đạm Phú Mỹ đang sản suất 800.000 tấn urê/năm đóng góp gần 40% nhu cầu cả nước; Nhà máy Lọc dầu Dung quất biểu tượng tiêu biểu của ngành công nghiệp lọc hoá dầu Việt Nam đã đi vào hoạt động cung cấp 30% nhu cầu xăng dầu cả nước. Một hệ thống cơ sở căn cứ dịch vụ kỹ thuật, bến cảng xây lắp dầu khí mạnh được hình thành. Tất cả đã tạo nên một nền công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh.
Thứ 2: Tập đoàn đã hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, đóng góp to lớn cho Ngân sách, cho phát triển kinh tế đất nước:
Tập đoàn luôn duy trì mức tăng trưởng trung bình gần 20%/năm; Tạo được nguồn vốn chủ sở hữu gần 250 nghìn tỷ đồng, tổng tài sản toàn Tập đoàn 525 nghìn tỷ đồng; Những năm gần đây Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đóng góp 25-30% tổng thu Ngân sách Nhà nước.
Thứ 3: Tập đoàn Dầu khí là Tập đoàn tiên phong trong hợp tác, hội nhập quốc tế và mở rộng đầu tư ra nước ngoài.
Đến nay Tập đoàn đã có hợp tác và đang triển khai thực hiện 18 hợp đồng dầu khí tại 14 nước. Từ năm 2006 Tập đoàn đã có tấn dầu thô đầu tiên khai thác từ nước ngoài. Các dự án trọng điểm đang được Tập đoàn tích cực triển khai tại LB Nga, tại Algiêria, tại Venezuela.
Thứ 4. Tập đoàn đã xây dựng đội ngũ những người làm dầu khí hùng hậu, có trình độ cao, với số lượng trên 50 nghìn lao động, trong đó trên 2.500 người có trình độ trên đại học, trên 25.000 người có trình độ đại học, trên 20.000 công nhân lành nghề. Đây là vốn quý của Tập đoàn đang được phát huy, đang làm chủ các hoạt động dầu khí trong và ngoài nước, đáp ứng cơ bản nhu cầu phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam.
Thứ 5. Tập đoàn đã thực hiện hiệu quả vai trò là đầu tàu kinh tế của đất nước, là một trong số các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ.

Tập đoàn đã thực sự là nòng cốt là hạt nhân trong việc hình thành nên các khu công nghiệp tập trung tại: Bà Rịa Vũng Tàu - Đồng Nai - Hiệp Phước, Cà Mau, Dung Quất - Quảng Ngãi - Đà Nẵng, Nghi Sơn – Thanh Hoá.
Các sản phẩm chủ yếu của Tập đoàn: dầu, khí, điện, đạm v.v. đang góp phần tích cực bình ổn thị trường trong nước. Những đóng góp vào Ngân sách Nhà nước hàng năm của Tập đoàn đang là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Chính phủ.
Thứ 6.         Tập đoàn tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền và biên giới Quốc gia:
Thứ 7. Tập đoàn Dầu khí đóng góp xứng đáng, thiết thực vào công tác an sinh xã hội:
Trong giai đoạn 2006-2010, toàn Tập đoàn thực hiện công tác an sinh xã hội tổng số tiền gần 2.000 tỷ đồng; Năm 2011 Tập đoàn đăng ký 600 tỷ đồng và dự kiến thực hiện cả năm đạt 715 tỷ đồng (vượt so với cam kết 115 tỷ đồng).

Năm 2011, trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa phục hồi, kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã nỗ lực hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh, sản xuất vượt mức các sản phẩm dầu, khí, điện, đạm.  
Đặc biệt Tập đoàn đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu của cả năm, về đích trước thời gian 3 tháng 04 chỉ tiêu: gia tăng trữ lượng dầu khí, tổng doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Dự kiến cả năm Tập đoàn sẽ nộp ngân sách 155 ngàn tỷ đồng, vượt 55 ngàn tỷ đồng (tương đương vượt 2,7 tỷ USD) so với kế hoạch.
Với kết quả trên, có thể khẳng định Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam 10 tháng qua đã quyết liệt đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, là đơn vị tiên phong và thực hiện tốt nhất Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Vững bước vào tương lai
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện nay là một Tập đoàn kinh tế mạnh - đoàn kết. Có được những kết quả, thành tích trên là do Tập đoàn luôn nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên, hiệu quả của Đảng, Nhà nước, sự giúp đỡ, bao dung của nhân dân cả nước, công sức của bao thế hệ đi trước: những người lãnh đạo vững vàng, năng động, sáng tạo, tập thể cán bộ, công nhân trình độ cao, trí tuệ cao.
Các thế hệ dầu khí tiếp theo kiên quyết không tự mãn với kết quả đạt được, không được phép làm phai mờ, làm xấu đi hình ảnh đáng quý đó, mà có trách nhiệm đồng tâm hiệp lực, phát huy thế mạnh, vun đắp thêm, làm sáng lên hình ảnh Dầu khí Việt Nam, tiếp tục xây dựng Tập đoàn Dầu khí ổn định và tiến lên phát triển bền vững.
Trong giai đoạn tới, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, triển khai Nghị quyết TW 3 (khóa XI) Tập đoàn Dầu khí Việt Nam xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt là tổ chức thực hiện thắng lợi của chiến lược tăng tốc phát triển, với 5 nhiệm vụ cốt lõi:
Thứ nhất: Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí
Thứ hai: Lọc hóa dầu
Thứ ba: Công nghiệp khí
Thứ tư : Công nghiệp điện
Thứ năm: Dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao.
          Trong đó công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là trọng tâm cốt lõi nhất trong các lĩnh vực cốt lõi. Phát hiện được một mỏ mới, đưa một mỏ mới vào khai thác là tạo được một bước nhảy vọt mới của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, nhiều mỏ mới sẽ tạo ra nhiều bước nhảy vọt mới, kéo theo các lĩnh vực khác cùng phát triển.
          Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chủ trương đẩy mạnh Tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, cả trong nước và nước ngoài. Trong nước, bên cạnh khu vực truyền thống, Tập đoàn phát triển ra khu vực mới: nước sâu xa bờ. Ở nước ngoài, Tập đoàn xác định địa bàn hoạt động: Liên bang Nga, các nước SNG: Uzbekistan, Azerbaijan, Kazakhstan; Khu vực châu Mỹ Latinh: với trung tâm Venezuala; Khu vực châu Phi, Đông Nam Á.
Để thực hiện thắng lợi Chiến lược tăng tốc, Tập đoàn  sẽ nỗ lực cao nhất để thực hiện thành công ba giải pháp đột phá: Giải pháp về con người;  Giải pháp về khoa học công nghệ; Giải pháp về quản lý.
Trong ba giải pháp đột phá đó Tập đoàn sẽ dành nhiều thời gian, nhiều công sức cho giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. Chăm lo đến con người, chính là chăm lo đến yếu tố quan trọng nhất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập đoàn triển khai chương trình đào tạo để vừa đáp ứng nhu cầu cán bộ cho giai đoạn trước mắt, đồng thời chuẩn bị xây dựng lực lượng lâu dài; Đào tạo đồng bộ cả ba loại cán bộ: cán bộ lãnh đạo, cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành và cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, để đáp ứng ba mục tiêu: Hướng tới hiện đại, chuyên nghiệp; Hướng ra thế giới; Hướng tới tương lai.
Đồng thời với đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, Tập đoàn tiếp tục và kiên trì xây dựng nền tảng Văn hóa Dầu khí: Vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang mầu sắc dầu khí. Văn hóa Petrovietnam xây dựng:
          Là Đoàn kết - Kỷ cương,
          Là Chất lượng - Hiệu quả,
          Là An toàn - Chắc chắn,
          Là Nhân ái - Trách nhiệm,
          Vì PVN phát triển bền vững,
          Vì Tổ quốc Việt Nam phồn vinh.
Trong giai đoạn tiếp theo, bên cạnh thuận lợi, Tập đoàn cũng nhận thấy những khó khăn, phức tạp: Các dự án của Tập đoàn nhiều, có dự án khó, có nhiều dự án lớn, nhu cầu vốn tăng cao trong giai đoạn 5 năm tới; Nguồn tài nguyên dầu khí, đặc biệt các mỏ lớn, ngày càng khan hiếm, phải tìm nơi xa hơn, nước sâu hơn, điều kiện địa chất phức tạp; Đầu tư ra nước ngoài với quy mô lớn hơn trong điều kiện cnh tranh quốc tế quyết liệt v.v.
Có khó khăn, có phức tạp, tuy nhiên thuận lợi là cơ bản. Là Tập đoàn có tiềm lực mạnh với truyền thống 50 năm, đơn vị Anh hùng, bên trên, Tập đoàn được Đảng – Nhà nước tin tưởng; bên ngoài, Tập đoàn được nhân dân cả nước giúp đỡ; bên trong, với phương châm đồng tâm hiệp lực chắc chắn Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam tiếp tục vững bước tiến lên.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tiếp tục thực hiện lời mong ước của Người, toàn thể cán bộ công nhân viên Tập đoàn Dầu khí  Quốc gia Việt Nam: lấy đồng tâm hiệp lực làm tiền đề, lấy đổi mới mọi mặt và xây dựng lực lượng chuyên nghiệp, đầu tư kỹ thuật mạnh làm phương tiện, quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam nhanh mạnh và bền vững

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét